Tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê là một trong các biến chứng xảy ra khi sử dụng thuốc gây mê. Vậy bạn đã biết gì về tình trạng này? Bài viết sức khỏe hôm nay của Kenshin sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về biến chứng này.
Bạn đang đọc: Những điều cần biết về tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê
Tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê được đánh giá là tình trạng tối khẩn cấp, sẽ đe dọa đến tính mạng của người bệnh nếu không được chẩn đoán đúng đắn và điều trị kịp thời. Vậy thế nào là tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê? Nguyên nhân xuất phát từ đâu? Biểu hiện lâm sàng như thế nào? Hướng chẩn đoán và xử trí ra sao? Cùng Kenshin tìm hiểu ngay nhé.
Contents
Tổng quan về tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê
Tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê hay sốt cao ác tính có tên tiếng anh là Malignant Hyperthermia. Đây là một biến chứng hoàn toàn do gây mê. Các chuyên gia y tế cho biết tăng thân nhiệt ác tính là bệnh gây ra bởi thuốc, tác động lên những cá thể mắc bệnh lý cơ và được đặc trưng bởi hiện tượng tăng dị hoá cơ vân.
Theo thống kê, ở Châu Âu, tỷ lệ mắc tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê dao động trong khoảng từ 1/200000 – 1/300000 trường hợp. Ở Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có số liệu thống kê cụ thể.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, yếu tố dịch tễ học và tác nhân gây bệnh bao gồm:
- Di truyền tính trạng trội.
- Tỷ lệ mắc phải ở nam giới cao hơn nữ giới.
- Ở trẻ nhũ nhi, tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê khá hiếm gặp.
- Nguy cơ mắc phải tình trạng này giảm khi trên 50 tuổi.
- Ở các nước phương Tây, tỷ lệ tử vong thấp hơn 50%.
- Tỷ lệ mắc phải tình trạng này ở trẻ em là 1/15000 và ở người lớn là 1/150000.
Tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê xuất phát từ nguyên nhân nào?
Tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê thường xảy ra một cách đột ngột, nguy cơ gặp phải tình trạng này cao ở những người có bệnh lý rối loạn nhiễm sắc thể. Đến nay, đã có 2 gen được xác định là Ryanodine (RyR1) và CACNA1S, trong đó RyR1 là nguyên nhân phổ biến nhất. Ngoài ra, có 4 gen khác đang được phân lập.
Tình trạng tăng thân nhiệt ác tính thường khởi phát do một số loại thuộc gây mê, chẳng hạn như:
- Thuốc gây mê bốc hơi Halogen: Halothane, Sevorane, Enflurane, Isoflurane hay Desflurane.
- Thuốc giãn cơ khử cực Succinylcholine hay Suxamethonium được chứng minh là có thể rút ngắn thời gian tiềm ẩn và dễ khởi phát tình trạng sốt cao ác tính.
Ở người có rối loạn nhiễm sắc thể, khi các loại thuốc này đi vào cơ thể sẽ gây ra sự giải phóng canxi từ các reticulum sarcoplasmique trong nội bào một cách ồ ạt, dẫn đến phản ứng co cơ dữ dội, hậu quả là thúc đẩy quá trình phân huỷ glycogen, tạo ra nhiều sản phẩm lactate, làm tăng kali máu, gây rối loạn nhịp thất và myoglobin niệu.
Biểu hiện lâm sàng của tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê
Tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê thường khởi phát với một số các triệu chứng như:
- Tăng nhịp thở, nhịp tim;
- Tăng CO2;
- Tăng huyết áp;
- Kích thích hệ thần kinh thực vật gây rối loạn nhịp thất;
- Tăng kali máu;
- Tăng trương lực cơ dữ dội, khởi đầu là co thắt cơ cắn sau đó đến các nhóm cơ khác;
- Thân nhiệt tăng cao và nhanh, mỗi 5 phút thân nhiệt tăng từ 1 – 2 độ C;
- Toan máu;
- Hạ oxy động mạch;
- Myoglobin niệu.
Tìm hiểu thêm: Vạch trần nguyên nhân gây ra cơn đau đỉnh đầu và cách phòng ngừa bệnh
Chẩn đoán và xử trí tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê
Như đã trình bày phía trên, tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê cần được chẩn đoán chính xác và xử trí kịp thời nếu không sẽ gây ra hậu quả khôn lường.
Chẩn đoán
Chỉ chẩn đoán hồi cứu bằng sinh thiết cơ đối với chẩn đoán sinh học. Bên cạnh đó, cần chẩn đoán phân biệt tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê với biểu hiện của các tình trạng bệnh khác, ví dụ như u tủy tuyến thượng thận, sốt do nhiễm trùng, cơn bão giáp, u tế bào ưa crom, hội chứng đáp ứng viêm, bệnh não thiếu oxy, ngộ độc thuốc, phản vệ và các bệnh lý khác về cơ (đặc biệt là rối loạn dưỡng cơ).
Xử trí
Xử trí tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê giai đoạn cấp bao gồm:
- Báo động cho nhân viên y tế khác đến giúp đỡ.
- Ngay lập tức dừng các thuốc mê nhóm Halogen và Suxamethonium đồng thời thay đổi toàn bộ hệ thống thở của máy gây mê. Tăng thông khí với oxy nguyên chất lên 10 lít/phút.
- Dantrolene 2 – 3 mg/kg (tối đa 10 mg/kg) tiêm tĩnh mạch liên tục cho đến khi các triệu chứng tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, co cơ, tăng CO2 được kiểm soát.
- Sử dụng dung dịch Natri bicarbonat NaHCO3 1.4% để điều trị toan chuyển hoá theo xét nghiệm khí máu. Trong trường hợp chưa có xét nghiệm thì sử dụng liều 1 – 2 ml/kg.
- Hạ thân nhiệt bằng cách sử dụng dung dịch muối 0,9% làm lạnh để rửa dạ dày, bàng quang và trực tràng. Ngoài ra có thể hạ thân nhiệt bằng cách lau mát hoặc sử dụng đệm trao đổi nhiệt. Tiếp tục theo dõi nhiệt độ thực quản cho đến khi đặt 38 độ C để phòng hạ thân nhiệt thứ phát.
- Kiểm soát toan máu và tăng kali máu để điều trị rối loạn nhịp tim. Có thể sử dụng thuốc chống loạn nhịp nếu tình trạng rối loạn nhịp tim không được cải thiện. Cần lưu ý, không sử dụng thuốc ức chế canxi bởi loại thuốc này sẽ khiến tình trạng bệnh trở nên tồi tệ hơn và gây ngừng tim.
- Theo dõi nồng độ CO2 trong khí thở ra, làm xét nghiệm khí máu, chức năng đông máu, điện giải đồ và chức năng thận.
- Tăng thông khí, truyền tĩnh mạch dung dịch insulin trong Glucose và kiềm hoá máu để điều trị tăng kali máu. Trong trường hợp tăng kali máu nghiêm trọng có thể sử dụng Calci Clorid 2 – 5 mg/kg.
- Duy trì lượng nước tiểu 2 ml/kg/giờ. Theo dõi huyết động bằng cách đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm và động mạch. Phòng suy thận bằng cách truyền nhiều dịch và sử dụng thuốc lợi tiểu.
Xử trí giai đoạn sau cơn sốt cao ác tính cụ thể như sau:
- Người bệnh được theo dõi đặc biệt tại phòng hồi sức sau phẫu thuật để phòng ngừa cơn sốt cao ác tính sau điều trị.
- Trong 1 – 2 ngày tiếp theo, duy trì Dantrolene 1mg/kg mỗi 6 giờ. Sau đó, dùng liều tương tự trong vòng 24 giờ nếu người bệnh có thể uống được và có thể kéo dài hơn nếu cần thiết.
- Theo dõi thân nhiệt, khí máu, điện giải đồ, men tim, chức năng đông máu, myoglobine máu và niệu mỗi 6 giờ cho đến khi tình trạng của người bệnh ổn định. Đặc biệt, cần theo dõi nhiệt độ trung tâm liên tục cho đến khi ổn định về ngưỡng bình thường.
- Thông báo cho người nhà về tình trạng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê đồng thời dặn dò người bệnh nếu phải tiến hành những phẫu thuật khác sau này cần khai báo thông tin này cho các bác sĩ gây mê nắm được.
>>>>>Xem thêm: Già đi một cách khỏe mạnh với chế độ dinh dưỡng khoa học
Như vậy, có thể thấy rằng tăng thân nhiệt ác tính trong gây mê là một rối loạn gen có liên quan đến thuốc với tỷ lệ mắc khá nhỏ. Bệnh không có biểu hiện đặc trưng, do đó rất cần chẩn đoán phân biệt và loại trừ. Nếu được chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời thì tình trạng bệnh này có thể chữa khỏi và tỷ lệ tử vong do tình trạng này thấp.
Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể